CỰU DANH THỦ
JIMMY FLOYD HASSELBAINK

Tiểu sử
Jerrel Floyd Hasselbaink (sinh ra tại Paramaribo, Surname, vào ngày 27 tháng ba năm 1972), thường được gọi bằng tên Jimmy Floyd Hasselbaink, là một cầu thủ bóng đá người Hà Lan. Trước đây ông từng khoác áo các CLB bóng đá khác nhau của Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, Wales và Tây Ban Nha. Trong sự nghiệp Hasselbaink từng ghi hơn 300 bàn thắng. Cháu trai của ông, Nigel Hasselbaink, đang chơi bóng cho đội tuyển trường đại học Hamilton.
Sự nghiệp thi đấu
Hasselbaink được sinh ra tại Paramaribo, Surname, nhưng bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại Hà Lan. Câu lạc bộ đầu tiên ông chơi là Telstar tại giải Earste Division, đến năm 1991 ông chuyển đến Alkmaar Zaanstreek và ở lại đây ba năm.
Bồ Đào Nha
Tháng tám năm 1995, Hasselbaink ký hợp đồng chơi cho Campomaiorense ở Bồ Đào Nha , nhưng sau đó một năm ông chuyển đến Boavista. Ở đây ông thể hiện phong độ ấn tượng với việc ghi 20 bàn sau 23 trận đấu, giúp CLB dành chức vô địch Bồ Đào Nha.
Leeds United
Hasselbaink bắt đầu nhận được sự chú ý của rất nhiều CLB ở Châu Âu. Tháng sáu năm 1997, với giá chuyển nhượng 2 triệu bảng, Hasselbaink chuyển đến Premier League để chơi cho Leeds United. Ở đây ông tiếp tục thể hiện hiệu suất săn bàn đáng nể, khi ghi 23 bàn thắng trong tất cả các mặt trận mà câu lạc bộ thi đấu. Năm tiếp theo ông ghi 21 bàn và giúp Leeds cán đích ở vị trí thứ tư Premiership. Hasselbaink luôn hoàn thành mục tiêu ghi 18 bàn mỗi mùa, nhờ đó ông trở thành một trong những chân sút hàng đầu giải bóng đá Anh.

Atlético de Madrid
Sau khi từ chối gia hạn hợp đồng với Leeds và muốn được ra đi, Hasselbaink chuyển đến CLB Tây Ban Nha - Atlético Madrid với giá 12 triệu bảng vào năm 1999. Ông nhanh chóng thích nghi và ghi 24 bàn sau 34 trận ở La Liga. Dù vậy cuối mùa, với 32 bàn thắng, Hasselbaink cũng không thể giúp CLB trụ hạng thành công.
Chelsea
Một lần nữa Hasselbaink trở lại nước Anh. Lần này CLB ông đầu quân là Chelsea, với mức giá kỷ lục của CLB thời đó là 15 triệu bảng.

Hasselbaink ngay lập tức chứng tỏ giá trị khi ghi 23 bàn trong 35 trận đấu mùa 2000-01, bao gồm cú volley từ ngoài vòng cấm vào lưới Manchester United và bốn bàn thắng vào lưới Coventry City. Ông kết thúc mùa giải với danh hiệu vua phá lưới. Vào đầu mùa giải tiếp theo, Hasselbaink ghi bàn thắng mở tỷ số trong trận mở màn gặp Southampton trên sân St Mary. Hasselbaink trở thành cặp tiền đạo ăn ý với cầu thủ người Iceland - Eidur Gudjohnsen, trong mùa giải thứ hai cho Chelsea. Bộ đôi này mang về 52 bàn thắng (Hasellbaink 29 bàn) và giúp Chelsea lọt vào trận chung kết FA Cup. Hasselbaink gặp chấn thương trước trận đấu nên buộc phải rời sân từ rất sớm. Cuối cùng Chelsea thúc thủ với tỷ số 2 - 0.

Hai mùa giải sau đó phong độ ghi bàn của Hasselbaink dần đi xuống. Mùa 2002-03, ông chỉ ghi được 11 bàn trong 27 trận đã đấu. Tuy nhiên ở mùa giải tiếp theo, mặc dù có sự xuất hiện của tiền đạo Adrian Mutu cùng Hernan Crespo, với 17 bàn Hasselbaink vẫn trở thành vua phá lưới lần thứ ba sau bốn năm thi đấu cho CLB. Hasselbaink kết thúc sự nghiệp với Chelsea sau 177 trận ghi 87 bàn thắng.
Middlesbrough
Năm 2004, Hasselbaink gia nhập Middlesbrough theo dạng chuyển nhượng tự do. Mùa giải đầu tiên trong màu áo mới, Hasselbaink ghi 13 bàn trong 36 trận. Ông là người ấn định chiến thắng 1 - 0 trong hai trận đấu với Grasshoppers ở UEFA Cup và Everton ở League Cup. Hasselbaink là người mang băng đội trưởng trong trận thắng 4 - 1 trước Manchester United, trận này ông cũng đóng góp 2 bàn. Trong mùa giải cuối cùng với Boro, Hasselbaink giúp CLB vào đến chung kết UEFA Cup, nơi họ thua Sevilla 4 - 0.

Sau khi Gareth Southgate lên thay Steve McClaren vừa tiếp nhận chiếc ghế HLV trưởng tuyển Anh, Hasselbaink tự nhận thấy mình trở thành người thừa và đề bạt nguyện vọng chia tay CLB. Ông sau đó được phép ra đi theo dạng chuyển nhượng tự do, nhưng mức lương 40.000 bảng một tuần đã trở thành lý do khiến cuộc đàm phán với Celtic thất bại. Hasselbaink rời Middlesbrough trong vị thế của một anh hùng, với những bàn thắng cũng như góp phần mang lại thành công ồ ạt cho Boro trong nước cũng như châu Âu. Ngày 11 tháng bảy, ông ký hợp đồng với Charlton Athletic.
Sau đó
Ngay sau khi gia nhập Charlton, Hasselbaink bị Liên đoàn bóng đá Anh - The FA điều tra về những tuyên bố trong quyển tự truyện. Trong bài viết của mình, Hasselbaink đã tiết lộ việc Chelsea thưởng thêm cho các cầu thủ sau khi đánh bại Arsenal tại tứ kết Champions League năm 2004. Quá trình điều tra của cơ quan hữu trách đã cho thấy những lý lẽ mà cựu tuyển thủ Hà Lan đưa ra là không có cơ sở. Chính vì thế, cầu thủ 34 tuổi này đã bị kết luận là có những hành vi đạo đức không đúng mực và cố tình làm xấu đi hình ảnh của trận đấu kể trên. Trong một bản thông báo sau đó, LĐBĐ Anh khẳng định:"Những khoản chi như vậy (nếu có) sẽ phá vỡ những quy định của giải ngoại hạng".

Hasselbaink và Madjid Bougherra trong màu áo Charlton
Hasselbaink ghi bàn thắng đầu tiên cho Charlton trong trận đối đầu với đội bóng cũ Chelsea, ngày chín tháng chín năm 2006. Ông sau đó không ăn mừng bàn thắng trong sự tôn trọng của người hâm mộ. Các Fan của Chelsea vẫn vỗ tay chúc mừng tuy bàn thắng của Hasselbaink là dành cho Charlton. Ông tiếp tục ghi hai bàn thắng từ chấm phạt đền giúp loại Chesterfield ra khỏi League Cup trong tháng 11. Ngày 13 tháng một năm 2007, Hasselbaink gặp lại đội bóng cũ khác là Middlesbrough, trận này Boro dành chiến thắng. Cũng giống như trận gặp Chelsea, Hasselbaink không ăn mừng bàn thắng vào lưới Middlesbrough. Ông rời Charlton cuối mùa giải 2006-2007.
Hasselbaink gia nhập CLB Leicester ở Championship, ngày 14 tháng tám năm 2007, nhưng ra đi ngay sau đó. Ngày 16 tháng 8, chủ tịch CLB Cardiff City - Peter Ridsdale, người từng làm việc với Hasselbaink ở Leeds United, đã quyết định ký hợp đồng một năm với ông. Hasselbaink trở thành cặp tiền đạo với cựu cầu thủ của Liverpool và Leeds - Robbie Fowler.
Ngày 19 tháng chín năm 2007, Hasselbaink ghi bàn thắng đầu tiên cho Cardiff, một bàn thắng từ cự ly 20 mét nhưng chung cuộc Cardiff vẫn thua Wafford với tỷ số 2 - 1. Sau khi thể hiện phong độ chói sáng ở vòng năm FA Cup trước Wolverhampton, ông được đề cử danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất vòng này. Vẫn là một gương mặt ra sân thường xuyên cho Cardiff trong suốt mùa giải, Hasselbaink chỉ đánh mất vị trí khi có sự xuất hiện của Steve Thompson, bên cạnh gánh nặng tuổi tác cũng khiến ông hiếm khi được thi đấu cả trận. Ngày 15 tháng ba năm 2008, Hasselbaink nhận thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp khi phạm lỗi với thủ môn Dean Gerken bên phía Colchenter United. Cardiff đã khán cáo nhưng án phạt vẫn được giữ nguyên.

Hasselbaink cũng xuất hiện năm trong số sáu trận giúp Cardiff tiến vào trận chung kết FA Cup lần đầu tiên sau 81 năm. Trận đấu mà Hasselbaink chơi 70 phút trước khi được thay bởi Steve Thompson. Chiến thắng chung cuộc 1 - 0 nghiêng về phía Portsmouth. Vào cuối mùa giải, Cardiff quyết định không gia hạn hợp đồng và Hasselbaink được phép ra đi. Cầu thủ người Hà Lan từ giả sự nghiệp sau đó.

Sự nghiệp quốc tế
Hasselbaink có trận ra mắt cho đội tuyển Hà Lan rất muộn. Thời gian ông khoác áo đội tuyển cũng không nhiều do phải cạnh tranh với những tên tuổi lừng lẫy như Dennis Bergkamp, Patrick Kluivert, Ruud van Nistelrooy, Pierre van Hooijdonk và Roy Makaay.

Năm 2004, Hasselbaink quyết định từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế. Thành tích đáng chú ý nhất của ông khi còn khoác áo tuyển da cam là có mặt tại World Cup 1998 ở Pháp, ghi bàn thắng cho Hà Lan trong trận mở màn với Bỉ.
Hasselbaink là một trong năm cầu thủ Hà Lan được gọi vào đội tuyển khi chưa từng thi đấu tại giải Eredivisie (giải đấu cao nhất của Hà Lan). các cầu thủ khác bao gồm Jordi Cruyff (con trai của Johan Cruyff), Rob Reekers, Willi Lippens và Wim Hofkens.
CỰU DANH THỦ
ROBERTO DI MATTEO

Tiểu sử
Roberto Di Matteo (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1970) là cầu thủ bóng đá người Ý, nhưng sinh ra tại Schaffhausen, Thụy Sĩ. Matteo hiện đang dẫn dắt câu lạc bộ West Bromwich Albion. Xuất thân là một tiền vệ nhưng ông lại sở hữu kỹ thuật cá nhân tốt, từng chơi cho các câu lạc bộ như Schaffhausen, Zurich Aarau, Lazio, và Chelsea. Ở đội tuyển quốc gia ông thi đấu 44 lần, ghi được 2 bàn thắng. Matteo cũng từng góp mặt trong đội hình tuyển Ý tham gia Euro 1996 và World Cup 1998.
Sự nghiệp thi đấu
Thụy Sĩ và Italy
Sinh ra ở Thụy Sĩ, trong khi bố mẹ đều là người Ý, Di Matteo bắt đầu sự nghiệp của mình với câu lạc bộ Schaffhausen Thụy Sĩ, trước khi gia nhập Zurich năm 1991 và Aarau một năm sau đó. Ông giành cúp Nationalliga A của Thụy Sĩ với Aarau vào năm 1993, và được trao giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất Thụy Sĩ cùng năm đó. Matteo ký hợp đồng với Lazio vào mùa hè năm 1993 theo dạng chuyển nhượng tự do. Di Matteo sau đó thường xuyên được đá chính trong đội hình gã khổng lồ thành Rome trong ba mùa. Tuy nhiên sau đó huấn luyện viên Zdeněk Zeman không còn tin tưởng Matteo do một sai lầm trong trận gặp Inter. Kết quả là Matteo chuyển đến Chelsea với mức giá kỷ lục khi ấy là 4.9 triệu bảng. Chính huấn luyện viên Ruud Gullit đã thuyết phục ông về với sân Stamford Bridge.

Chelsea
Di Matteo đã có khởi đầu ấn tượng trong màu áo Chelsea, ghi bàn thắng đầu tiên trong trận gặp Middlesbrough. Khả năng qua người và những cú nã đại bác chính xác khiến Matteo trở thành thành động lực cho sự hồi sinh của Chelsea cuối những năm 90. Mùa giải đầu tiên Matteo ghi 9 bàn thắng, bao gồm hai quả sút xa tuyệt đẹp trong trận gặp Tottenham và Wimbledon. Ông đã giúp câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 6, thành tích tốt nhất của Chelsea từ mùa giải 1989-1990, và giành được chiếc cúp FA năm 1997 trước đối thủ Middlesbrough. Trong 42 giây của trận chung kết năm ấy, Matteo dẫn bóng và ghi bàn ở cự li 30 mét, giúp Chelsea vượt lên dẫn trước. Đây là bàn thắng được ghi nhanh nhất trong một trận đấu tại sân Wembley cũ, mặc dù sau đó Louis Saha đã phá vỡ kỷ lục này cũng trong một trận chung kết FA Cup khác với Chelsea.

Mùa giải sau đó, Matteo từng bước chứng tỏ giá trị của mình, với 10 bàn thắng và vô số pha kiến tạo. Ông đã giúp Chelsea đoạt thêm Football League Cup và Winners Cup, chiếc cúp châu Âu đầu tiên sau năm 1971. Trong trận chung kết League Cup, đối thủ lại là Middlesbrough, Di Mateeo ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2 - 0. Mùa 1998-1999, Chelsea thiết lập chuỗi bất bại 20 trận liện tiếp và kết thúc ở vị trí thứ ba, vị trí có xuất dự Champions League. Di Matteo đóng một vai trò quan trọng trong hàng tiền vệ cùng với Gustavo Poyet, Dennis Wise và Dan Petrescu. Trong trận gặp Conventry City, ông ghi bàn thắng đáng nhớ ở ngay giây cuối cùng của trận đấu.

Bộ đôi Zola và Matteo từng một thời mang đến nhiều thành công cho Chelsea
Trong mùa 1999-2000, cống hiến của Mateeo bị ảnh hưởng bởi chấn thương, nhưng khi trở lại ông vẫn giúp Chelsea đăng quang chiếc cúp FA thứ ba tại Wembley. Trong trận đấu, Di Matteo trừng phạt sai lầm của thủ môn Aston Villa là David James, mang về bàn thắng ở phút 71. Phát biểu về bàn thắng này, Di Matteo nói, "Mặt sân lúc đó xấu, nhưng nó lại mang đến may mắn cho tôi".
Đầu mùa giải 2000-2001, Di Matteo bị gãy chân trong trận với St Gallen của Thụy sĩ, khiến ông phải ngồi ngoài 18 tháng. Matteo cuối cùng trở lại và nghỉ hưu vào tháng 2 năm 2002 ở tuổi 31. Trong sáu năm thi đấu cho Chelsea, Matteo ra sân 175 trận và ghi 26 bàn thắng. Ông được chọn vào đội hình xuất sắc nhất của Chelsea mọi thời đại Chelsea XI. Bên cạnh đó huấn luyện viên Claudio Ranieri còn chọn Matteo vinh dự dẫn đầu đội bóng ra sân trong trận chung kết FA Cup năm 2002, trận đấu đó Chelsea để thua 2 - 0. Di Matteo vẫn thi thoảng trở lại Chelsea cho mục đích quảng cáo và ông được phép sử dụng phòng tập thể dục mới của câu lạc bộ tại khu tập luyện Cobham.
Sự nghiệp huấn luyện
Milton Keynes Dons
Trong tháng 7 năm 2008, Di Matteo đã bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Milton Keynes Dons sau khi Paul Ince đến Blackburn Rovers. Ông lần lượt bổ nhiệm đồng đội cũ tại Chelsea là Eddie Newton làm trợ lý và Ade Mafe, vận động viên tại Olympic mùa hè 1984, làm huấn luyện viên thể dục. Trong mùa giải đầu tiên với MK Dons, Matteo dẫn dắt đội bóng đứng thứ ba Coca Cola League One, phía sau Leicester và Peterborough. Đội bóng sau đó đánh mất vé lên hạng vào tay Scunthorpe. Hai đội cầm chân nhau 1-1 và 0-0 sau lượt trận hai. Trên chấm phạt đền The Dons để thua với tỷ số 7-6. Người đồng đội cũ của Matteo tại Chelsea là Tore André Flo đã đá hỏng quả 11 mét cuối cùng.

West Bromwich Albion
Di Matteo sau đó lên làm huấn luyện viên của West Bromwich Albion. Ở mùa giải đầu tiên, ông giúp đội bóng đừng thứ hai Championship, sau đối thủ nhiều duyên nợ Newcastle. Đội bóng có biệt danh "chích chòe" do đứng đầu nên được lên hẳn Barclays Premier League mà không phải đá play-off.
Ngày 14 tháng 8 năm 2010, Roberto Di Matteo trở lại Stamford Bridge. Nhưng lần này ông đối đầu với "The Blues" trên cương vị huấn luyện viên West Brom. Trận đấu khai mạc Premier League diễn ra không như ý muốn, West Brom thất bại 6 - 0 với hat-trick của Didier Drogba. Tuy nhiên, đội bóng sau đó gây bất ngờ khi thắng Sunderland với tỷ số 1 - 0 trên sân nhà The Hawthorns.

Cuộc sống cá nhân
Di Matteo hiện đang sống ở Leamington Spa, Warwickshire với vợ và ba người con
CỰU DANH THỦ
DAMIEN DUFF

Tiểu sử
Damien Duff Anthony ( sinh ngày 02 tháng 3 năm 1979 ) là cầu thủ bóng đá người Ireland. Anh hiện đang chơi bóng ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Fulham ở Premier League, cũng như ở đội tuyển quốc gia cộng hòa Ireland. Trước đây Duff từng chơi cho Balckburn Rovers, nơi anh đã giành được League Cup; Chelsea, nơi mang lại cho Duff hai danh hiệu Premier League và một League Cup. Anh cũng từng khoác áo Newcastle United cho đến khi câu lạc bộ này xuống hạng năm 2009.
Sự nghiệp thi đấu
Blackburn Rovers
Sinh ra tại Ballyboden, quận Dublin, cộng hòa Ireland. Duff tham gia học viện bóng đá Blackburn từ năm 1996 sau khi trưởng thành từ các đội bóng thiếu niên phong trào như Leicester Celtic và Lourdes Celtic và Kevin's Boys. Ở trận đấu đầu tiên của Duff cũng là trận cuối cùng của mùa giải 96 - 97, trớ trêu thay lại là trận đối đầu với đội bóng cũ Leicester City. Duff khi ấy 18 tuổi đã được trao giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận. Trong mùa giải mới đầu tiên của mình ( 1997-1998), anh ghi bốn bàn, nhưng cuối cùng vẫn phải chứng kiến câu lạc bộ xuống hạng.

Duff sau đó giúp Blackburn trở lại Premier League mùa 2000-2001 và giành luôn cả League Cup. Sau World Cup 2002, Duff ký hợp đồng bốn năm với Rovers, mặc dù báo chí lúc đó cho rằng anh sẽ thay đổi câu lạc bộ. Mùa giải 2002-2003, Duff gặp một số vấn đề về chấn thương nhưng vẫn trở thành cây săn bàn hàng đầu của câu lạc bộ với 11 bàn thắng. Với sự xuất sắc của cầu thủ người Ireland, Rovers cán đích ở vị trí thứ 6 và có vé dự cúp UEFA.
Chelsea
Đội bóng phía Tây London, Chelsea, đã dành mối quan tâm đến Duff. Mùa 2003-2004, Chelsea đưa ra giá 17 triệu bảng cho các điều khoản giải phóng hợp đồng và Duff được chuyển đến câu lạc bộ mới ngay trong tháng 7. Mùa giải dầu tiên Duff dính chấn thương và buộc phải ngồi ngoài trong giai đoạn đầu mùa giải, bao gồm cả bán kết UEFA Champions League. Giải đấu cao nhất của Chelsea trong 49 năm kết thúc thất bại và Claudio Ranieri bị sa thải.

Sự xuất hiện sau đó của cầu thủ chạy cánh người Hà Lan Arjen Robben và huấn luyện viên José Mourinho đã đe dọa đến vị trí của Duff trong đội hình. Thế nhưng một chấn thương của Robben đầu mùa giải 2004-2005, khiến Mourinho vẫn phải trông cậy vào Duff. Khi Robben trở lại, Duff ngay lập tức phải ngồi ngoài 4 trận. Huấn luyện viên Mourinho sau đó không muốn lãng phí tài năng của Duff và cho anh chuyển sang chơi bên cánh phải. Duff và Robben khi ấy tạo thành hai mũi tấn công nguy hiểm, và mang lại cho Chelsea thành công hơn mong đợi. Duff ghi 10 bàn thắng, bao gồm cả bàn trong trận thắng 4 - 2 trước Barcelona tại Champions League. Cuối mùa giải đó Chelsea giành danh hiệu Premier League và League Cup ( Duff ghi bàn trong trận bán kết với Manchester United ).
Newcastle United
Trong tháng 7 năm 2006, Duff chuyển đến Newcastle với giá 5 triệu bảng, hợp đồng có thời hạn 5 năm. Trận đầu tiên của Duff trong mùa áo mới là trận Newcastle gặp Ventspils ở vòng loại UEFA Cup. Đến tháng 9 năm đó, Duff ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong cuộc hành quân đến Boleyn Ground gặp West Ham. Tuy nhiên, Duff buộc phải ngồi ngoài bốn tháng khi dính chấn thương đầu gối, khiến Newcastle liên tiếp có những kết quả không tốt sau đó. Anh trở lại nhưng lại gặp vấn đề ở mắt cá trong trận Newcastle thua 2 - 1 trước Portsmouth, tháng 4 năm 2007. Huấn luyện viên Sam Allardyce mô tả những chấn thương như cơn ác mộng với sự nghiệp của Duff. Tháng 12 năm 2007, Duff trở lại.

Cầu thủ người Ireland được cho là sẽ ra đi, nhưng sau cùng anh vẫn ở lại sau kỳ chuyển nhượng mùa đông, ngay cả khi huấn luyện viên Kevin Keegan từ chức. Alan Shearer sau khi lên giữ chức vẫn xem Duff là nòng cốt trong sơ đồ chiến thuật của mình. Trận cuối cùng của mùa giải 2008-2009, cuộc đối đầu giữa Aston Villa và Newcastle có ý nghĩa quyết định đến việc "chích chòe" có xuống hạng hay không mùa sau. Duff đã ghi bàn thắng quyết định, thế nhưng vẫn không cứu nổi đội bóng cảnh xuống chơi ở Coca Cola Championship. Cũng giống như ở Blackburn, Duff tuyên bố sẽ ở lại và giúp đội bóng thăng hạng. Anh ghi bàn đầu tiên cho đội bóng mùa 2009-2010, bàn thắng vào lưới West Bromwich Albion. Duff ngay sau đó có mặt trong số 92 cầu thủ giàu nhất được tạp chí FourFourTwo bình chọn. Tài sản của Duff được định giá 14 triệu bảng.
Fulham
Sau khi chơi trận đầu tiên cho Newcastle mùa giải 2009-2010, Duff trở lại Premier League để khoác áo Fulham. Mức phí chuyển nhượng không được công bố, nhưng lần trở lại này khiến Duff được tái ngộ với người thầy cũ ở Blackburn Rovers là Roy Hodgson. Trận đầu tiên Duff khoác lên mình màu áo trắng là lần đón tiếp Amkar Perm tại Raven Cottagers, trong khuôn khổ cúp UEFA. Trận đó câu lạc bộ thành London giành chiến thắng 3 - 1.

Ở Premier League, anh có trận đầu tiên ra mắt trong trận gặp lại đội bóng cũ Chelsea. Trận đó Fulham để thua với tỷ số 2 - 0. Bàn thắng đầu tiên đến với cầu thủ Ireland trong trận gặp Everton. Phút 79 của trận đấu, Duff ghi bàn giúp Fulham ấn định chiến thắng 2 - 1, một chiến thắng quan trọng với câu lạc bộ. Bàn thắng thứ hai là pha ghi bàn vào lưới Manchester United sau khi nhận đường chuyền từ Bobby Zamora. Trận đó Fulham gây sốc khi giành chiến thắng với tỷ số 3 - 0.
Sự nghiệp quốc tế
Khi còn đang học trung học, Duff đã chơi cho Ireland trong năm 1997 và tại FIFA World Youth Championship 1999.

Duff có mặt trong đội tuyển cộng hòa Ireland lần đầu tiên vào năm 1998, đối đầu với cộng hòa Czech. Kể từ đó đến nay anh chơi đã tổng cộng 83 lần và ghi 7 bàn thắng cho đội tuyển. Tại World Cup 2002, Duff được bình chọn là cầu thủ hay nhất trận trong lần đối đầu với Saudi Arabia. Năm 2009, Duff được FIFA bầu chọn vào danh sách 124 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới hiện nay.
Cuộc sống cá nhân
Tháng 6 năm 2010, Duff kết hôn với cô bạn gái của mình là Elaina tại Midsomer Norton, Somerset.